Cổ tức là khoản thanh toán định kỳ. Nếu mức trả cổ tức tăng, chứng tỏ việc đầu tư cổ tức này sinh lời và doanh nghiệp làm ăn hiệu quả.
Những Điều Cần Biết Về Việc Đầu Tư Cổ TứcTừ rất lâu, trước khi xuất hiện chương trình cung cấp điểm thưởng trên thẻ tín dụng, nhà đầu tư đã có quyền nhận cổ tức từ việc sở hữu cổ phiếu.
Cổ tức là một kiểu phân bổ lại lợi nhuận của doanh nghiệp cho các cổ đông; tức là trích ra một phần nhỏ lợi nhuận cho những người đã hào phóng đầu tư tiền vào doanh nghiệp đó. Cũng giống như điểm thưởng, đó là một khoản tiền tri ân khách hàng đã hợp tác kinh doanh với họ.
Cổ tức phục vụ cho các mục đích mà đôi bên cùng có lợi, đối với cả phía doanh nghiệp và cả nhà đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư chuộng thu nhập. Cổ tức là một dấu hiệu thể hiện khả năng tạo lợi nhuận của doanh nghiệp. Qua đó phản ánh tích cực về hiệu quả hoạt động của những doanh nghiệp có thói quen chi trả cổ tức đều đặn.
Hễ cổ tức được chia nhiều và đều đặn thì sẽ tạo được niềm tin từ các cổ đông. Nếu doanh nghiệp luôn duy trì được mức chi trả cổ tức thì tiền đầu tư sẽ vẫn thường xuyên được rót vào cổ phiếu của họ.
Cổ tức là khoản thanh toán mà một công ty nào đó trả cho các nhà đầu tư của mình. Các doanh nghiệp và thực thể tài chính, như công ty đại chúng, công ty trách nhiệm hữu hạn và quỹ đầu tư bất động sản, sẽ phân phối lợi nhuận sau thuế của họ cho các nhà đầu tư dưới dạng cổ tức. Các quỹ tương hỗ và quỹ hoán đổi danh mục (ETF) cũng có trả cổ tức.
Mức chi trả cổ tức được hội đồng quản trị của doanh nghiệp quyết định, và nó được tính trên mỗi cổ phiếu. Thông thường, cổ tức được chi dưới dạng tiền mặt và được gửi trực tiếp vào tài khoản của nhà đầu tư.
Tuy nhiên, các doanh nghiệp đôi khi sẽ trả cổ tức bằng cổ phiếu mới. Và, trong một số trường hợp, một số doanh nghiệp sẽ chào mời nhà đầu tư tham gia vào những chương trình tái đầu tư cổ tức (DRIP); trong đó cho phép các nhà đầu tư dùng cổ tức để mua thêm cổ phiếu, thường là với mức giá chiết khấu.
Ở Mỹ, các doanh nghiệp thường trả cổ tức mỗi quý. Nhưng đôi khi, có những doanh nghiệp cũng trả cổ tức hàng tháng hoặc nửa năm một lần.
Hầu hết các doanh nghiệp có chi trả cổ tức là những doanh nghiệp có mức vốn hóa lớn, đã lớn mạnh và có nhiều lợi nhuận. Các tập đoàn hùng mạnh này không cần phải tái đầu tư lợi nhuận trở lại để phát triển hoạt động kinh doanh giống như nhóm các công ty vốn hóa vừa và nhỏ hoặc các công ty khởi nghiệp.
Những ngành công nghiệp có nhiều công ty trả cổ tức, và có những công ty trả cổ tức cao trong đó bao gồm:
Mặc dù cổ tức chỉ đến từ cùng một nguồn, tức là lợi nhuận của doanh nghiệp nhưng bản chất của từng loại cổ tức phụ thuộc vào loại cổ phiếu mà nhà đầu tư nắm giữ.
Đôi khi, một số công ty sẽ phát hành cổ tức đặc biệt, tức là chi trả thêm cho các cổ đông phổ thông. Cổ tức đặc biệt thường được phát hành bởi các công ty dự trữ được lượng lớn tiền mặt trong nhiều năm hoặc mới thu về một số tiền lớn. Ví dụ như từ việc bán đi một công ty con của họ. Mặc dù cổ tức đặc biệt thường cao hơn nhiều so với các loại cổ tức thông thường, nhưng phần cổ tức “chi thêm” này chỉ được phát hành một lần.
Có một số ngày giao dịch quan trọng có liên quan đến lợi ích cổ tức, đặc biệt có dính líu đến thời điểm mà người sở hữu cổ phiếu được xét đủ điều kiện nhận cổ tức.
Những mốc thời gian trên có tầm quan trọng không chỉ vì chúng quyết định quyền hưởng cổ tức của nhà đầu tư mà còn quyết định đến cả mức thuế mà họ phải đóng.
Xét về hệ thống thuế ở Mỹ, cổ tức được phân thành hai loại:
Tất nhiên, mức đánh thuế còn phụ thuộc vào khung thuế của từng cá nhân, nhưng mức đánh thuế đối với cổ tức tiêu chuẩn thường thấp hơn. Và cổ tức có được xem là dạng tiêu chuẩn hay không thì còn phụ thuộc vào thời gian mà nhà đầu tư sở hữu cổ phiếu, tức là 60 ngày trước ngày giao dịch không hưởng quyền.
Bên cạnh mức chia tính theo đơn vị tiền tệ như thông thường, cổ tức còn được đánh giá theo một vài cách khác nhau.
Khi đánh giá độ lớn nhỏ của cổ tức, giới đầu tư sẽ nhìn vào lợi suất cổ tức của một cổ phiếu; tức là mức trả cổ tức hàng năm chia cho giá cổ phiếu ở một ngày giao dịch nhất định. Nếu đánh giá cổ phiếu bằng lợi suất cổ tức thì sẽ công bằng hơn khi so sánh giữa các cổ phiếu với nhau và mức chi trả cổ tức từ chúng.
Ví dụ: một cổ phiếu có giá 10 USD và chi trả cổ tức hàng quý là 10 cent/cổ phiếu sẽ có lợi suất cổ tức là 4%. Tương tự, một cổ phiếu giá 100 USD nếu mỗi quý đem lại nguồn cổ tức 1 USD/cổ phiếu thì cũng có lợi suất cổ tức là 4%.
Lợi suất cổ tức và giá cổ phiếu tỷ lệ nghịch với nhau. Khi cổ tức tăng, giá cổ phiếu sẽ giảm. Vì vậy, lợi suất cổ tức sẽ tăng thông qua hai hướng:
Tuy nhiên, ngoài việc đánh giá lợi suất cổ tức, những nhà đầu tư chuyên nghiệp thậm chí còn đánh giá kỹ hơn về tỷ lệ chi trả cổ tức để đánh giá nhanh về độ bền vững của nguồn chi này.
Tỷ lệ chi trả cổ tức là tỷ lệ trích xuất từ thu nhập ròng của doanh nghiệp để phân phối thành cổ tức cho cổ đông. Tỷ lệ chi trả này càng cao thì biên độ an toàn càng thấp. Theo luật bất thành văn, giới đầu tư thường chỉ tìm đến những cổ phiếu có tỷ lệ chi trả thấp hơn 80% thu nhập ròng của doanh nghiệp.
Các công ty có trả cổ tức cũng khuyến khích nhà đầu tư nên rót vốn vào các công cụ tài chính an toàn. Mặc dù các hoạt động đầu tư chứng khoán thường khiến cổ phiếu tăng giá, nhưng cơ quan thuế ở Mỹ có những quy định đánh thuế “nhẹ tay” hơn đối với các khoản thu nhập từ cổ tức. Thay vì phải đóng thuế thu nhập trên lãi vốn ở mức cao hơn, nhà đầu tư chỉ phải đóng thuế thu nhập thông thường khi nhận cổ tức.
Cổ tức giúp sinh lợi cho nhà đầu tư và giúp tăng uy tín cho doanh nghiệp. Cổ tức chính là dấu hiệu cho thấy doanh nghiệp đang “ăn nên làm ra” và có đủ khả năng tài chính để chia sẻ lợi nhuận với các nhà đầu tư của mình. Trên thực tế, một trong những đặc điểm của cổ phiếu blue-chip, tức là cổ phiếu của các công ty đại chúng tầm cỡ và ưu tú nhất, đó là nó thuộc về một doanh nghiệp có thành tích liên tục gia tăng cổ tức trong quãng thời gian kéo dài hàng thập kỷ.
Các doanh nghiệp không bị bắt buộc phải chia cổ tức; nhưng một khi đã chia cổ tức, giới đầu tư sẽ mong đợi họ tiếp tục thói quen chi trả đó, ngay cả trong thời điểm kinh tế khó khăn. Nhà đầu tư cũng sẽ kỳ vọng doanh nghiệp nâng mức chia cổ tức theo định kỳ. Nếu một công ty nào đó thông báo sẽ hạ mức chia cổ tức trong một quý thì giá cổ phiếu của công ty đó thường sẽ giảm. Và nếu doanh nghiệp nào đột ngột tạm dừng chương trình chi trả cổ tức thì thường doanh nghiệp đó đang gặp khó khăn, và lúc đó có thể các nhà đầu tư sẽ bán tháo cổ phiếu của họ.
Đăng Khoa - Theo BusinessInsider