Dòng tiền (cash flow) là lượng tiền hoặc các khoản tương đương tiền thực tế chảy vào và ra khỏi doanh nghiệp trong một khoảng thời gian cụ thể.
Dòng tiền thể hiện lượng tiền ra vào công ty. Tiền đến từ khách hàng và khách hàng thanh toán cho hàng hóa và dịch vụ của họ, cũng như từ các hoạt động kinh doanh khác như bán đi các khoản đầu tư, phát hành vốn chủ sở hữu và nợ. Lượng tiền ra khỏi công ty dùng để chi trả cho các chi phí và các khoản như chi phí vốn, cổ tức, và trả nợ. Nếu lượng tiền vào nhiều hơn lượng tiền đi ra, thì dòng tiền là dương, còn nếu lượng tiền ra nhiều hơn lượng tiền vào thì dòng tiền là âm. Dòng tiền không giống như lãi và lỗ, có thể bao gồm các khoản không phải tiền mặt và doanh thu được công ty tính tại các thời điểm khác nhau. Một số người nghĩ rằng dòng tiền giúp mô tả tình hình tài chính của một công ty chính xác hơn.
Ví dụ
Giả sử cô Hằng bắt đầu kinh doanh tại nhà với công việc bán đồ trang sức trực tuyến. Tiền mặt mà khách hàng trả cho cô Hằng để mua đồ trang sức chính là dòng tiền vào của cô. Nếu một trong những người bạn của cô ấy ký giấy nợ để đổi lấy một chiếc vòng cổ, thì giấy nợ đó sẽ không được tính vào dòng tiền cho đến khi người bạn đó chuyển tiền thật để thanh toán.
Nhưng lượng tiền mặt đó cũng không phải là toàn bộ lợi nhuận. Cô Hằng phải sử dụng một số tiền này để mua vật tư chế tạo thêm đồ trang sức để bán. Những chi phí đó là một phần của dòng tiền ra của cô. Nếu cô Hằng mua vật tư theo hình thức tín dụng, thì các khoản chi phí sẽ không nằm trong dòng tiền cho đến khi cô chuyển số tiền thanh toán thực tế.
Bài học
Dòng tiền cũng giống như dòng nước ra vào bể bơi vậy…
Bể bơi được đổ đầy nước bằng một cái vòi, biểu thị cho dòng tiền vào của một doanh nghiệp. Nhưng bể bơi cũng có một lỗ hổng trong đó. Nước thoát qua lỗ thể hiện dòng tiền ra của doanh nghiệp. Nếu nước chảy vào nhiều hơn nước rút ra, mực nước trong hồ bơi sẽ tăng lên, nếu nước đi ra ngoài nhiều hơn lượng nước vào, mực nước sẽ giảm.
Dòng tiền cực kỳ trọng yếu vì chỉ số này cho biết số tiền mà các công ty phải chi ra để tiếp tục duy trì hoạt động. Bất kỳ doanh nghiệp nào cũng tạo ra dòng tiền bằng cách bán hàng hóa và dịch vụ của họ. Họ cũng có thể huy động được tiền mặt bằng cách vay thêm nợ hoặc bằng cách bán thêm cổ phần trong công ty.
Sau đó, công ty sẽ sử dụng dòng tiền để thanh toán các chi phí hoạt động như tiền lương cho nhân viên, nguyên vật liệu và tiền thuê. Họ cũng sử dụng dòng tiền để tài trợ vốn đầu tư vào chính mình dưới hình thức chi phí tài sản cố định, chẳng hạn như mua hoặc xây dựng các tòa nhà mới hoặc mua thiết bị vật tư. Các công ty cũng có thể sử dụng một phần dòng tiền của họ để trả cổ tức cho các cổ đông hoặc để mua lại cổ phiếu của chính họ.
Dòng tiền đặc biệt cần thiết đối với các công ty mới vì họ thường chi tiêu nhiều tiền hơn số tiền tạo ra do những doanh nghiệp non trẻ này chưa tạo ra được nhiều tiền mặt từ các hoạt động bán hàng hóa và dịch vụ. Họ phải tìm các con đường khác để có được tiền mặt, chẳng hạn như vay thêm nợ hoặc phát hành cổ phiếu mới (nghĩa là bán một phần quyền sở hữu trong công ty cho các nhà đầu tư bên ngoài).
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ nêu chi tiết số lượng tiền hoặc các khoản tương đương tiền luân chuyển vào và ra khỏi công ty trong kỳ tài chính. Đây là một trong ba phần chính trong báo cáo tài chính, bên cạnh đó còn có bảng cân đối kế toán (liệt kê tài sản và nợ phải trả của doanh nghiệp) và báo cáo kết quả kinh doanh (trình bày cách tính lãi hoặc lỗ của doanh nghiệp). Mọi công ty đại chúng đều phải nộp các báo cáo tài chính này.
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ bao gồm ba thành phần chính: tiền từ hoạt động kinh doanh, tiền từ hoạt động đầu tư và tiền từ hoạt động tài chính. Kết hợp chúng lại với nhau thì sẽ thành dòng tiền ròng của công ty.
Tiền từ hoạt động kinh doanh là tiền mặt mà công ty thu được bằng cách bán hàng hóa và dịch vụ của họ và chi tiêu để tài trợ cho các hoạt động vận hành. Tiền từ các hoạt động đầu tư là khoản tiền mặt mà một công ty chi ra để đầu tư vào hoạt động kinh doanh, chẳng hạn như chi phí đầu tư vào tài sản hoặc thiết bị hoặc thu được từ các khoản đầu tư. Tiền từ hoạt động tài chính là số tiền mà công ty huy động được từ các chủ nợ hoặc nhà đầu tư (thường là thông qua phát hành nợ và vốn cổ phần) hoặc chi trả cổ tức cho các chủ sở hữu (dưới hình thức cổ tức hoặc mua lại cổ phiếu).
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ có thể sẽ hữu ích cho các nhà đầu tư tiềm năng trong việc đưa ra quyết định xem họ có muốn đầu tư vào công ty đang xét hay không bằng cách cho họ thấy công ty đang quản lý nguồn tiền của mình như thế nào. Họ có thể biết công ty đang kiếm tiền như thế nào và chi tiêu vào đâu. Họ cũng có thể xem công ty có dòng tiền tự do là bao nhiêu, nghĩa là hoạt động của công ty tạo ra bao nhiêu tiền mặt mà không bị thâm vào chi tiêu vốn. Dòng tiền tự do thường được sử dụng như một thước đo về tính thanh khoản và tính linh hoạt tài chính của một công ty.
Dòng tiền hoạt động, đầu tư và tài chính được tính toán trên các phần riêng biệt của báo cáo lưu chuyển tiền tệ, trong đó mỗi phần sẽ ghi lại các dòng tiền vào và ra cho từng loại hoạt động.
Dòng tiền từ hoạt động kinh doanh có thể được tính bằng phương pháp trực tiếp hoặc gián tiếp, mặc dù vậy phương pháp gián tiếp thường dễ dàng hơn và là phương pháp phổ biến nhất. Phương pháp gián tiếp lấy lãi hoặc lỗ thuần từ báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của công ty, cộng lại mọi chi phí không dùng tiền mặt (chẳng hạn như khấu hao và khấu trừ), loại trừ mọi khoản lãi hoặc lỗ không dùng tiền mặt được tính như một phần của thu nhập ròng và điều chỉnh theo những thay đổi trong các khoản mục nhất định trong bảng cân đối kế toán như các khoản phải thu (số tiền công ty chưa nhận được) và các khoản phải trả (các hóa đơn phát sinh của công ty mà công ty chưa thanh toán).
Dòng tiền đầu tư là tổng lượng tiền mặt mà doanh nghiệp chi cho hoặc nhận được từ các hoạt động đầu tư. Chỉ số này bao gồm các khoản chi phí tài sản cố định, mua doanh nghiệp, chứng khoán hoặc các khoản đầu tư khác và lợi nhuận từ việc bán hoặc nhận lãi từ các khoản đầu tư đó.
Dòng tiền tài chính dòng tiền vào từ việc bán cổ phiếu hoặc phát hành trái phiếu hoặc các khoản nợ khác của công ty trừ đi dòng tiền để trả nợ, mua lại cổ phiếu hoặc trả cổ tức.
Nếu một công ty có dòng tiền dương, thì công ty đó đang thu về nhiều tiền hơn là chi tiêu. Nếu một công ty có dòng tiền âm, nghĩa là công ty đó đang chi tiêu nhiều tiền hơn số tiền mà họ đang thu vào.
Một công ty có dòng tiền dương sẽ linh hoạt hơn trong việc thanh toán hóa đơn, thanh toán các khoản nợ, trả cổ tức cho cổ đông và đầu tư vào tương lai phát triển của doanh nghiệp.
Vì các doanh nghiệp có ba loại dòng tiền khác nhau nên họ có thể sẽ có dòng tiền dương trong một nhóm ngành này và dòng tiền âm trong một nhóm ngành khác. Trong ba loại trên, điều quan trọng nhất đối với một công ty là dòng tiền hoạt động của họ phải là dương. Mặc dù công ty nào cũng có thể bù đắp lượng tiền mặt thiếu hụt từ hoạt động kinh doanh thông qua các phương pháp gọi vốn, nhưng bản thân hoạt động kinh doanh cốt lõi của công ty phải tạo ra được tiền mặt.
Dòng tiền dương nghe có vẻ giống như lợi nhuận, nhưng không phải vậy.
Lợi nhuận là doanh thu trừ đi chi phí, vốn dĩ là một phép tính tổng thể về hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Nhưng tại các công ty đại chúng, nguồn thu và chi được ghi lại khi phát sinh, và đó có thể là trước hoặc sau khi tiền thực sự được trao tay. Mặt khác, dòng tiền chỉ đo lường lượng tiền mặt vào và ra khỏi một công ty trong một khoảng thời gian nhất định nhưng không bao gồm những thứ như doanh số bán hàng hoặc mua hàng bằng tín dụng cho đến khi tiền thực sự được chuyển đến tài khoản bên bán.
Có một điểm khác biệt quan trọng giữa hai cách tính đó là các khoản phải thu, nghĩa là khoản tiền mà khách hàng nợ công ty khi mua hàng hóa hoặc dịch vụ. Doanh số bán hàng thu về theo hình thức tín dụng được tính là doanh thu, vì vậy chúng được dùng vào việc xác định lợi nhuận của công ty và khiến cho các khoản phải thu tăng lên. Nhưng con số này không được tính là dòng tiền vì công ty chưa nhận được tiền và không thể sử dụng để thanh toán các hóa đơn hoặc chi tiêu cho các khoản đầu tư.
Giả sử một công ty có doanh số là 1.000 USD, toàn bộ đều là tín dụng. Báo cáo kết quả kinh doanh của công ty sẽ hiển thị số tiền đó trong khoản mục doanh thu, từ đó sẽ thúc đẩy lợi nhuận của doanh nghiệp. Nhưng lúc này dòng tiền vào sẽ chỉ còn 0.
Do đó, một số nhà đầu tư cho rằng dòng tiền hoạt động là một chỉ báo tốt hơn về hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp hơn là lợi nhuận. Có dòng tiền là sẽ có thanh khoản tiền mặt, tức là có tiền chi tiêu được, nhưng chỉ với lợi nhuận thì chưa chắc doanh nghiệp có thể làm được như vậy.
Các doanh nghiệp cũng khó “phù phép” dòng tiền hơn so với lợi nhuận. Nếu một công ty nào đó muốn thể hiện rằng sức khỏe tài chính của họ đang rất tốt, công ty này có thể tìm cách cải thiện các khoản mục khôngg tiền mặt hoặc “xào nấu” doanh thu để làm tăng lợi nhuận trong một khoảng thời gian nhất định. Tuy nhiên, hành vi này là vi phạm các quy tắc kế toán và có thể bị Ủy ban Chứng khoán tiến hành thanh tra kiểm tra.
Dòng tiền được quyết định bởi lượng tiền mặt mà một công ty thực sự nhận được và dùng để chi tiêu. Nếu lợi nhuận của doanh nghiệp cao hơn nhiều hoặc liên tục cao hơn dòng tiền hoạt động thì đó có thể là một tín hiệu báo động để các nhà đầu tư xem xét kỹ hơn liệu lợi nhuận của công ty có phải là nguồn tiền chất lượng hay không, nghĩa là số tiền thực tế chảy vào công ty có tốt hay không.
Để làm rõ cho các nhà đầu tư, cần biết rằng cũng có lúc dòng tiền có thể phản ánh sai lệch về tình hình hoạt động của doanh nghiệp. Chẳng hạn, một công ty nào đó có thể có dòng tiền dương bởi vì họ đi vay tiền, nhưng song song với đó, công ty cũng đã tăng thêm nợ. Dòng tiền cũng có thể được thúc đẩy tăng lên nếu công ty trì hoãn việc thanh toán cho các nhà cung cấp (hàng hóa, dịch vụ).
Đăng Khoa - Theo learn.robinhood.com